by Andy On The Go

Tôi dừng dưới một mái hiên cũ. Gió chậm lại, nắng tản đi, tiếng phố nhỏ dần. Người ta gọi đó là kiến trúc Đông Dương, nơi lý tính gặp bản địa, nơi kỹ thuật sinh ra bóng râm và hơi thở. Từ mái hiên ấy, tôi đi dọc đất nước để lắng nghe những ngôi nhà biết thở.

Tôi bắt đầu ở Bảo tàng Lịch sử Quốc gia, Hà Nội, vào một buổi sớm cuối xuân. Ánh sáng xám bạc của mưa phùn phủ đều lên mái dốc đua rộng, những lam che nắng mờ đi như mí mắt khép hờ. Gió luồn qua lá sách gỗ, mùi vôi ẩm và gạch cũ nổi nhẹ. Tôi đứng dưới hiên, nghe thành phố phía ngoài bị lọc thành một lớp âm thanh mịn. Ở đây, cả một không gian rộng lớn đặt người vào bóng râm đúng lúc trời vừa ấm dần.

Nhìn kỹ cấu trúc, tòa nhà vận hành trên một trục trung tâm rõ rệt. Từ tiền sảnh thấp và sâu, không gian mở cao dần qua hành lang, rồi gom lại ở khối mái chồng diêm như một chiếc nón lớn. Mặt đứng chia ba lớp: chân đế đặc và cao để tránh ẩm; thân nhà là nhịp cột, vòm và cửa lá sách lặp đều; phía trên là diềm mái đua rộng tạo một vành bóng râm bao quanh. Bên trong, hành lang bao quanh một sân trong nhỏ, như lá phổi kín đáo của công trình, cho thông gió chéo hoạt động suốt ngày. Tường gạch dày, ô thoáng đặt cao, cửa hai lớp (kính chịu mưa và lá sách lấy gió) giúp giảm biên độ nhiệt mà vẫn đủ sáng. Các mảng đặc và rỗng được cân tay: tường đặc giữ mát, loggia rỗng đón gió, để mỗi bước chân đi trong bóng râm luôn có một điểm sáng dẫn lối. Ở đây, kỹ thuật khí hậu và thẩm mỹ bản địa không tách rời; chúng khớp ngàm vào nhau, nhẹ như một khớp gỗ tốt.

Kiến trúc Đông Dương, hay còn gọi là Indochine Style, ra đời vào đầu thế kỷ 20 như một cuộc gặp gỡ giữa lý tính phương Tây và cảm quan bản địa. Khi người Pháp mang ngôn ngữ Tân cổ điển đến vùng nhiệt đới, họ sớm nhận ra giới hạn của vật liệu và khí hậu. Từ đó, những kiến trúc sư như Ernest Hébrard tìm cách lai ghép: giữ lại trục đối xứng và tổ chức không gian của châu Âu, nhưng thay mái bằng ngói dốc, mở hiên sâu, thêm cửa lá sách, lam gió, sân trong để thích nghi với nắng gắt và mưa nhiều. Cái đẹp của phong cách Đông Dương không nằm ở sự phô diễn, mà ở chỗ dung hòa: giữa cái mát và cái sáng, giữa lý tính và cảm xúc, giữa kỷ luật hình khối và sự mềm mại của khí trời.

Đến Trường Quốc Học Huế khi mùa mưa đang lưng chừng. Ánh sáng chuyển sang một sắc xanh rêu, bức tường gạch đỏ thẫm như vừa được đánh bóng bằng nước. Hành lang dài, nền gạch mát lịm. Tôi đi chậm để nghe tiếng giọt mưa gõ đều lên mép mái. Thầy bảo vệ nhắc nhỏ: “Mưa Huế không vội, chỉ thử lòng mái hiên.” Tôi đứng lại đếm, thấy nhịp mưa và nhịp thở của mình trùng nhau trên một đoạn rất ngắn.

Cấu trúc của trường là một minh họa rõ ràng cho tinh thần Đông Dương: khối nhà chính chạy dọc sông Hương, mặt tiền đối xứng, nhịp cột đều đặn, mái ngói đua rộng, và những hành lang hai bên tạo vùng đệm cho lớp học. Tường gạch trát vôi đỏ, chân đế cao chống ẩm, cửa sổ cao và hẹp mở ra những khe sáng dịu. Gió từ sông đi vào một đầu hành lang, trượt dọc theo tường, rồi thoát ra ở cuối dãy. Trong tiếng mưa, ta vẫn nghe được âm vang của vật liệu: gạch, ngói, gỗ; ba yếu tố mộc mạc nhưng phối với nhau có nhịp điệu, như một bản nhạc trầm. Ở Huế, kiến trúc luôn có độ lắng riêng: không phô trương, chỉ cần đủ râm mát để giữ lại một hơi thở dài, chậm và an.

nhà cổ Tấn Ký, Hội An, mùa hạ đã rót vàng mật ong vào buổi chiều. Ánh sáng rơi qua giếng trời, cắt thành từng miếng trên mặt bàn gỗ. Cửa chớp mở nhiều nấc, không khí đi qua như một dòng nước ấm. Người thợ mộc chỉ tay vào tay vịn cầu thang đã bóng lên sau bao năm chạm, cười: “Cái này không ai vẽ được đâu.” Tôi tin vậy. Có những chi tiết do thời gian hoàn thiện, giúp kiến trúc bớt sắc, thêm dịu.

Lên Trường Cao đẳng Sư phạm Đà Lạt (Lycée Yersin) giữa đầu đông, sương trắng sữa quàng qua khối cong và tháp chuông. Mỗi ô cửa nhỏ là một khung sương riêng. Gió lạnh đi dọc hiên, mang theo mùi thông rất nhẹ. Tôi ngồi trên bậc thềm, thấy kiến trúc ở đây như người biết chờ. Chờ sương mỏng hơn, chờ nắng muộn hơn, rồi mới mở ra những đường cong và nhịp cột rõ ràng.

Kết thúc ở Bảo tàng Lịch sử Việt Nam trong Thảo Cầm Viên, Sài Gòn, một chiều cuối mùa khô. Ánh sáng hổ phách rót xuống sân gạch, lá cây đổ bóng thành những mảng ngắt nhịp. Bên trong sảnh, trần cao giữ tiếng ồn ở phía trên, tầng người đi bộ bỗng yên. Tôi dựa tay lên lan can gỗ sẫm, cổ áo khô lại rất nhanh dù ngoài kia đang oi ả. Thành phố này chạy nhanh, nhưng khi đi qua một hiên râm, ta vẫn thấy tốc độ chậm lại một chút.

Phong cách Indochine khi trải dọc từ Bắc chí Nam cũng đổi giọng theo khí hậu và nhịp sống từng vùng: ở miền Bắc, nó trầm và kín như lớp áo vôi dày của Hà Nội; vào miền Trung, nó biết chịu mưa, biết lắng như những mái ngói bên sông Hương; còn ở miền Nam, nó mở rộng và phóng khoáng, hòa cùng nắng và cây, mang hơi thở của một vùng đất cởi mở. Cùng một triết lý thích nghi, nhưng mỗi nơi là một sắc độ khác nhau của cùng một bản hòa âm.

Năm điểm dừng, năm sắc độ ánh sáng, năm mùa khác nhau. Tôi nhớ nhất cảm giác đứng trong vùng chuyển tiếp: nơi nắng bớt gắt mà vẫn sáng, nơi gió đi qua rồi ở lại một chút. Từ Bắc vào Nam, những công trình tốt đều nói nhỏ cùng khí hậu. Khi ta lắng nghe đủ lâu, ta nhận ra câu chuyện của chúng không phải về hình dáng, mà về cách chúng dạy ta đứng yên trong thế giới luôn di chuyển.
Sài Gòn, 22.10.2025
Source hình: góp nhặt trên online, các trang báo chính thức, website của bảo tàng…

Leave a comment

About the AUTHOR

Welcome to Andy On The Go where stillness meets motion, and breath becomes a way of living.

My Latest Roads

Latest posts